Top 10+ mẫu viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử

19/08/2025

Trong hành trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã sản sinh ra biết bao anh hùng kiệt xuất để lại những dấu ấn sâu đậm trong lịch sử. Việc viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử tại truyenhay247.com không chỉ giúp chúng ta nhớ về những chiến công oanh liệt mà còn rút ra được những bài học quý giá cho cuộc sống hôm nay.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử hay

Để có được nền hòa bình hôm nay, biết bao thế hệ cha anh đã ngã xuống, không tiếc máu xương để bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Trong số những người anh hùng ấy, anh Kim Đồng – một thiếu niên dũng cảm – đã để lại tấm gương sáng ngời cho thế hệ trẻ Việt Nam.

Kim Đồng là người dân tộc Tày. Cha mất sớm, anh sống cùng mẹ – một người phụ nữ tuy đảm đang nhưng bệnh tật liên miên. Lớn lên trong cảnh đất nước bị xâm lược, Kim Đồng sớm bộc lộ tinh thần yêu nước, ý chí mạnh mẽ và sự căm thù giặc sâu sắc. Tuy còn nhỏ tuổi, anh đã hăng hái tham gia cách mạng, nhận nhiệm vụ giao liên, đưa đón cán bộ Việt Minh và chuyển thư từ quan trọng. 

Bằng sự dũng cảm, nhanh trí, Kim Đồng được bầu làm đội trưởng đầu tiên của Đội Nhi đồng cứu quốc. Anh không ngại gian khổ, hiểm nguy, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong một lần làm nhiệm vụ, anh đã bị giặc Pháp bắn và anh dũng hy sinh khi mới 14 tuổi. Sự ra đi của anh khiến nhiều người tiếc thương, và từ đó đã có nhiều bài thơ, bài hát được sáng tác để tưởng nhớ, tri ân công lao của anh.

Hình ảnh anh Kim Đồng sẽ mãi rực sáng trong tâm trí các thế hệ người Việt. Anh là biểu tượng đẹp đẽ về tinh thần yêu nước, sự thông minh, gan dạ và lòng trung kiên tuyệt đối với Tổ quốc – tấm gương để tuổi trẻ noi theo, tiếp bước cha anh dựng xây và bảo vệ đất nước.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử ngắn gọn

Tháng tư vừa qua, trường em đã tổ chức một buổi tham quan nằm trong chuỗi hoạt động ngoại khóa thường niên. Điểm đến lần này là Đền Hùng ở Việt Trì – Phú Thọ, nơi thờ phụng các đời Hùng Vương và hoàng tộc. 

Đây cũng chính là địa điểm gắn liền với ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, được tổ chức hằng năm vào mùng 10 tháng 3 âm lịch – một dịp để con cháu cả nước hướng về cội nguồn, tưởng nhớ công ơn các bậc tiền nhân đã có công dựng nước.

Trước chuyến đi, em đã từng nghe nhiều câu chuyện về các Vua Hùng qua những truyền thuyết nổi tiếng như Sơn Tinh – Thủy Tinh, Sự tích bánh chưng bánh dày… Những câu chuyện ấy đã khắc họa sự uy nghiêm, trí tuệ và tầm vóc lớn lao của các vị vua, khiến em càng thêm háo hức mong chờ ngày được tận mắt chiêm ngưỡng nơi linh thiêng này.

Dưới chân núi Nghĩa Lĩnh hiện lên khung cảnh hùng vĩ, uy nghiêm với rừng cây xanh thẳm và làn sương mờ bảng lảng. Trên núi là ba ngôi đền chính: đền Hạ, đền Trung và đền Thượng. Đền Hạ gắn với truyền thuyết mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, nở thành trăm người con – khởi nguồn của dân tộc Việt. Đền Trung là nơi các vua Hùng từng họp bàn việc nước. 

Đền Thượng chính là nơi thờ Hùng Vương thứ sáu. Hằng năm, lễ hội Đền Hùng diễn ra trang trọng với các nghi thức rước kiệu, dâng hương cùng nhiều hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc. Dưới tán cây cổ thụ, tiếng trống đồng vang vọng hòa cùng dòng người rước kiệu, khiến không khí lễ hội trở nên thiêng liêng và huyền ảo như trở về thời đại Hùng Vương.

Trước khi tham quan, chúng em được tham gia lễ dâng hương và nghe thuyết trình về công lao của các vị vua. Giây phút trang nghiêm ấy khiến em vô cùng tự hào, xúc động. Các Vua Hùng đã đổ biết bao công sức dựng xây quốc gia, để thế hệ sau được sống trong hòa bình và độc lập. Nay chúng em đến đây không chỉ để tìm hiểu lịch sử mà còn để bày tỏ lòng biết ơn, thực hiện đúng đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.

Tiếp đó, đoàn chúng em được tham quan từng ngôi đền. Mọi di vật, cách bài trí đều toát lên sự tôn nghiêm và linh thiêng. Trong đó, em ấn tượng nhất với tấm bia tại đền Hạ khắc lời Bác Hồ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta cùng nhau giữ lấy nước”. Câu nói như một lời nhắn gửi, một lời hứa thiêng liêng về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong công cuộc giữ gìn đất nước.

Chuyến đi tuy chỉ diễn ra trong một buổi sáng nhưng để lại trong em nhiều suy ngẫm sâu sắc. Em hiểu rằng bản thân cần phải biết kính trọng, biết ơn công lao của các bậc tiền nhân, đặc biệt là các Vua Hùng. Và trong trái tim em luôn vang vọng câu ca dao quen thuộc:

“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.”

Viết bài văn kể lại một sự việc có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử hay

Lý Công Uẩn quê ở làng Cổ Pháp, thuộc phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ngày nay, tại làng Đình Bảng vẫn còn lăng và đền thờ các vua triều Lý.

Theo truyền thuyết, ông vốn không có cha. Mẹ ông là bà Phạm Thị, trong một lần đi chơi chùa Tiên Sơn đã nằm mộng thấy được thần nhân ban phúc, sau đó sinh ra một bé trai khôi ngô tuấn tú. 

Khi lên ba, cậu bé được gửi cho nhà sư Lý Khánh Văn ở chùa Cổ Pháp nuôi dưỡng. Dưới mái chùa, Lý Công Uẩn sớm được học chữ Nho, kinh Phật và võ nghệ, lớn lên trở thành một tài trai văn võ song toàn, đức hạnh nổi bật.

Ngoài hai mươi tuổi, ông đã trở thành võ tướng dưới triều vua Lê Đại Hành, từng lập công lớn trong trận Chi Lăng năm 981 khi cùng quân dân đánh bại giặc Tống, chém đầu tướng Hầu Nhân Bảo. Về sau, ông giữ chức Tả Thân Vệ Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, nắm toàn bộ binh quyền, được tướng sĩ và quần thần hết mực kính phục.

Năm 1005, Lê Đại Hành băng hà. Ngôi báu truyền cho Lê Long Việt nhưng chỉ ba ngày sau đã bị em là Lê Long Đĩnh giết hại để cướp ngôi. Lê Long Đĩnh nổi tiếng hoang dâm tàn bạo, mắc bệnh đến nỗi không ngồi được, mỗi lần chầu đều nằm, nên dân gian gọi là vua Ngọa Triều. 

Đến cuối năm 1009, khi Lê Long Đĩnh qua đời, lòng người đã oán hận nhà Tiền Lê sâu sắc. Lúc bấy giờ, Lý Công Uẩn 35 tuổi, với uy tín và đức độ sẵn có, ông được quần thần cùng giới tăng lữ tôn lên ngôi hoàng đế, chính thức khai mở triều đại nhà Lý (1010–1225).

Đầu xuân năm 1010, Lý Công Uẩn đăng cơ, lấy hiệu là Lý Thái Tổ. Trong 19 năm trị vì, nhà vua đã đem lại nhiều đổi thay lớn lao, đặc biệt là quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long – một tầm nhìn chiến lược có ý nghĩa ngàn đời. Ông thọ 55 tuổi, băng hà năm 1028, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc như vị vua khai sáng một triều đại thịnh trị bậc nhất nước ta.

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử chi tiết

Nhân dịp Tết Nhâm Dần, tôi có cơ hội được tham dự Hội xuân Yên Tử tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh – nơi diễn ra lễ dâng hương cầu nguyện quốc thái dân an Xuân Yên Tử 2022. Đây là một trong những lễ hội mùa xuân lớn và dài ngày nhất của cả nước, được tổ chức thường niên từ mùng 10 tháng Giêng và kéo dài trong suốt ba tháng. 

Vào dịp này, hàng vạn người dân từ khắp mọi miền hành hương về Yên Tử, dâng hương tưởng niệm Phật Hoàng Trần Nhân Tông – vị vua anh minh đã từ bỏ ngai vàng để tu hành và sáng lập Thiền phái Trúc Lâm mang đậm bản sắc dân tộc Việt.

Ngay khi đặt chân đến nơi, lòng tôi dâng trào một cảm xúc bồi hồi khó tả. Con đường hành hương bắt đầu từ vườn tháp Huệ Quang dẫn lên chùa Hoa Yên. Vườn tháp với 64 ngọn tháp cổ kính, mang trong mình bề dày lịch sử hàng trăm năm. Giữa không gian trang nghiêm ấy là pho tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông bằng cẩm thạch trắng, trong tư thế thiền định ung dung, khoác áo cà sa giản dị. 

Hình ảnh uy nghiêm ấy khiến ai đứng trước cũng phải lặng mình chiêm bái. Đoàn rước lễ do các vị sư thầy dẫn đầu chậm rãi tiến lên chùa Hoa Yên – ngôi chùa cổ rêu phong nằm lặng lẽ giữa núi rừng, càng làm cho không khí buổi lễ thêm linh thiêng.

Trong giây phút trang trọng, bài diễn văn cầu quốc thái dân an vang lên, hòa cùng làn khói hương nghi ngút. Mọi người đồng loạt nâng trên tay một nén hương thành kính, dâng lên Phật Hoàng với ước nguyện cho một năm mới an lành, may mắn, đất nước thái bình, nhân dân hạnh phúc. Sau phần lễ, dòng người tản ra, người ngắm cảnh chùa, người tiếp tục cuộc hành hương lên đỉnh chùa Đồng – nơi đặt bức tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông uy nghi sừng sững giữa mây trời.

Công lao của Trần Nhân Tông được lịch sử và nhân dân gìn giữ, tưởng nhớ qua muôn đời. Lễ hội Xuân Yên Tử không chỉ là dịp để tri ân vị vua – vị Phật của dân tộc, mà còn là một truyền thống văn hóa đặc sắc, đã trở thành điểm hẹn tâm linh không thể thiếu mỗi độ xuân về. Hàng năm, lễ hội luôn thu hút đông đảo du khách và Phật tử, góp phần làm rạng ngời thêm giá trị văn hóa, lịch sử và tinh thần của dân tộc Việt Nam.

Xem thêm: Gợi ý 10+ mẫu viết bài văn nghị luận về một vấn đề cần giải quyết trong đời sống của học sinh hiện nay

Xem thêm: 10+ Bài viết bài văn nghị luận về một vấn đề đời sống một thói xấu của con người trong xã hội hiện đại

Viết bài văn kể lại sự việc có thật liên quan đến một nhân vật lịch sử nâng cao

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Người là một tấm gương sáng ngời, để lại muôn vàn bài học quý giá cho các thế hệ noi theo. Những câu chuyện giản dị về Bác luôn mang đến những thông điệp sâu sắc về nhân cách, đạo đức và lối sống.

Tương truyền, trong những năm tháng kháng chiến ở Việt Bắc, mỗi lần đi công tác, Bác thường có hai đồng chí đi cùng. Sợ Bác mệt, họ xin được mang ba lô giúp Người, nhưng Bác từ chối. Bác nói: “Đi đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt. Nếu dồn đồ vào một người thì người ấy càng nhanh kiệt sức. Cứ chia đều ra cả ba thì tốt hơn.” Nghe vậy, hai đồng chí đành phân vật dụng ra thành ba phần. 

Khi lên đường, Bác lại kiểm tra và phát hiện trong ba lô của mình chỉ có chăn màn, nhẹ hơn hẳn. Biết các đồng chí đã cố ý giảm gánh nặng cho mình, Bác liền nhắc nhở: “Chỉ có lao động thật sự mới đem lại hạnh phúc cho con người.” Sau đó, Người yêu cầu phải chia lại thật công bằng rồi mới tiếp tục hành trình.

Câu chuyện tuy nhỏ nhưng chứa đựng một bài học lớn. Nó cho thấy Bác Hồ là người yêu lao động, coi trọng sự công bằng và luôn tự mình làm việc, từ việc lớn như lãnh đạo cách mạng đến việc nhỏ như trồng cây, quét sân. Ở Bác, lao động không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm vui, là giá trị tạo nên hạnh phúc.

Thật vậy, mỗi câu chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh đều có ý nghĩa sâu xa, giúp chúng ta nhận ra bài học quý báu cho bản thân: phải biết trân trọng lao động, tự giác học tập và rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội.

Bài Viết Liên Quan