Viết bài văn kể lại một chuyến đi tham quan một di tích lịch sử văn hóa siêu hay

19/08/2025

Trong chương trình Ngữ văn, đề tài viết bài văn kể lại một chuyến đi tham quan một di tích lịch sử văn hóa luôn được nhiều bạn học sinh quan tâm. Đây không chỉ là cơ hội để rèn luyện kỹ năng kể chuyện, miêu tả, mà còn giúp chúng ta ôn lại những kỷ niệm đáng nhớ, đồng thời bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc. Mỗi chuyến đi tham quan đều mở ra một trang trải nghiệm mới, đưa ta đến gần hơn với những giá trị truyền thống quý báu của cha ông để lại.

Viết bài văn kể lại một chuyến đi tham quan một di tích lịch sử văn hóa hay

Cuộc đời mỗi người là tập hợp những chuyến đi, ngắn hay dài, nhưng đều để lại dấu ấn riêng. Với tôi, chuyến tham quan đáng nhớ nhất chính là hành trình đến Mai Châu – Hòa Bình vào năm ngoái. Chuyến đi không chỉ mở ra cơ hội khám phá vẻ đẹp quê hương mà còn giúp chúng tôi thêm gắn bó với mảnh đất giàu truyền thống này.

Cuối tháng 11, đầu tháng 12, khi còn là học sinh lớp 7, chúng tôi bất ngờ nhận thông báo sẽ có chuyến đi xa kéo dài 2 ngày 1 đêm. Cả lớp háo hức chuẩn bị, mong chờ. Ngày khởi hành, xe du lịch rời khỏi Hà Nội, bỏ lại sau lưng khói bụi và ồn ào phố thị. Càng đi xa, cảnh vật càng trong lành, bóng cây xanh trải dài hai bên đường.

Đến gần trưa, trước mắt chúng tôi là núi non điệp trùng, rừng cây xanh mát. Tiết trời Hòa Bình khi chớm đông thêm phần se lạnh, đôi lúc mưa bụi giăng mờ. Xe dừng tại đèo Thung Khe – còn gọi là “đèo đá trắng”. Từ đây, thung lũng Mai Châu hiện ra hùng vĩ, bốn bề như tranh. Bác tài kể rằng, chỉ trong một ngày, Thung Khe có thể mang đủ bốn mùa, khiến chúng tôi càng thêm tò mò.

Xe tiếp tục đưa đoàn qua những nương mía, vườn cam Cao Phong trĩu quả, những mái nhà sàn thấp thoáng giữa núi rừng. Điểm dừng chân là một dãy nhà sàn dành cho du khách. Sau khi sắp xếp hành lý, chúng tôi nghỉ ngơi và chuẩn bị cho hành trình khám phá.

Buổi chiều, một thiếu nữ người Mèo xinh đẹp trong bộ váy xòe rực rỡ dẫn đường cho đoàn. Chúng tôi ghé thăm Bản Lác và bản Poom Coọng – hai bản du lịch nổi tiếng nhất Mai Châu. Ở đây, chúng tôi được thưởng thức đặc sản, mua quà lưu niệm, khám phá nét văn hóa độc đáo của người dân bản địa. Trời sập tối, đoàn quay về nhà sàn, cùng nhau ăn uống, trò chuyện, và lần đầu tiên được trải nghiệm cảm giác nằm cạnh nhau trong tiếng cười rộn ràng.

Sáng hôm sau, tôi thức dậy trong tiếng gà gáy vang vọng và bầu không khí trong lành. Sau bữa sáng, chúng tôi tiếp tục hành trình bằng xe điện, ghé thăm Hang Mỏ Luông và Hang Chiều – những hang động đẹp bậc nhất Mai Châu. Nhũ đá lung linh, nhiều hình thù kỳ ảo khiến tôi ngỡ như đang bước vào một thế giới khác.

Xe chầm chậm lướt qua những cánh đồng vàng óng, bản làng yên bình. Người dân nơi đây còn nhiều vất vả, nhưng vẫn thân thiện, ấm áp. Hình ảnh những cô bé tuổi còn nhỏ đã bế em trên tay khiến tôi không khỏi xúc động. Trên đường, chúng tôi gặp cả những du khách nước ngoài đạp xe, vui vẻ vẫy chào.

Chuyến đi khép lại bằng buổi mua sắm nhộn nhịp ở chợ địa phương. Cơm lam ngọt ngào, những sản phẩm thổ cẩm rực rỡ khiến ai cũng say mê. Đặc biệt, trước khi về, chúng tôi còn ghé vườn cam Cao Phong, tự tay hái những quả cam vàng mọng nước làm quà.

Khi xe đưa chúng tôi trở lại Hà Nội, ánh đèn thành phố dần hiện ra. Trong balo mỗi người là những món quà nhỏ, nhưng trong tim lại chứa đựng một kỷ niệm lớn. Mai Châu để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc về cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, con người hiền hòa, và lời hẹn thầm: một ngày nào đó sẽ trở lại nơi bản làng bình dị ấy.

Viết bài văn kể lại một chuyến đi tham quan một di tích lịch sử, văn hóa ngắn gọn

Sau những ngày học tập vất vả, một chuyến đi xa luôn mang lại cho chúng ta niềm hứng khởi và sự cân bằng. Với em, chuyến du lịch cùng tập thể lớp 6A vào dịp Tết Dương lịch đến khu K9 và Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam ở Hà Nội là một kỷ niệm đẹp khó quên, vừa vui tươi vừa bổ ích.

Đêm trước chuyến đi, em háo hức chuẩn bị đầy đủ đồ dùng cần thiết. Sáng sớm hôm sau, cả lớp tập trung tại trường, xe du lịch chờ sẵn đưa chúng em lên đường. Ngồi trên xe, không khí rộn ràng, ai nấy vừa trò chuyện vừa tham gia trò chơi thú vị do chú Minh – hướng dẫn viên vui tính – tổ chức. Nhờ trò “Lắng nghe và ghi nhớ”, chúng em vừa giải trí vừa học thêm nhiều kiến thức bổ ích về những địa điểm sắp tham quan.

Điểm dừng chân đầu tiên là khu di tích K9. Tại đây, chúng em được chiêm ngưỡng khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, thăm ngôi nhà gắn liền với Bác Hồ và lắng nghe nhiều câu chuyện lịch sử ý nghĩa. Sau bữa trưa thịnh soạn ở nhà hàng “Quê Hương”, cả lớp nghỉ ngơi rồi tiếp tục hành trình.

Buổi chiều, điểm đến khiến chúng em vô cùng háo hức chính là Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam. Vừa đặt chân tới, chúng em chụp ảnh lưu niệm, rồi lần lượt tham quan tháp Chăm, đền Cổ và những ngôi nhà sàn đặc trưng của nhiều dân tộc. Không chỉ được mở rộng tầm mắt, chúng em còn tham gia các trò chơi tập thể sôi nổi ngay trên bãi cỏ rộng xanh mát. Tiếng cười vang vọng khắp không gian, tình bạn bè thêm gắn bó hơn bao giờ hết.

Khi hoàng hôn buông xuống, chuyến đi cũng dần khép lại. Trên đường trở về, ai cũng lưu luyến, mang theo trong lòng những kỷ niệm khó quên. Với em, đó không chỉ là một chuyến tham quan bổ ích mà còn là hành trình trưởng thành, giúp em thêm hiểu biết về văn hóa – lịch sử, đồng thời gắn kết hơn với tập thể lớp. Mai này, ký ức về chuyến đi ấy chắc chắn sẽ mãi là một dấu ấn đẹp trong tuổi học trò của em.

Viết bài văn kể lại một chuyến đi tham quan một di tích lịch sử văn hoá chi tiết

Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những vết thương của lịch sử vẫn còn đó như lời nhắc nhở muôn đời. Một sáng cuối xuân đẹp trời, chúng em có dịp đến thăm khu chứng tích Sơn Mỹ – nơi gắn liền với ký ức đau thương của dân tộc và để lại trong lòng chúng em những xúc động khó quên.

Đoàn xe lăn bánh qua cầu Trà Khúc, dòng sông xanh ngắt hiện ra hiền hòa, lặng lẽ soi bóng núi Ấn uy nghiêm. Cảnh sắc quê hương Quảng Ngãi thật thơ mộng, nhưng trong lòng mỗi người lại dấy lên niềm tự hào xen lẫn bồi hồi khi nghĩ về một thời oanh liệt. Đến nơi, lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong gió như nhắc nhở chúng em về sự hy sinh lớn lao của bao thế hệ.

Chúng em theo cô hướng dẫn viên vào thăm nhà lưu niệm. Những hiện vật, những bức ảnh vẫn còn được lưu giữ cẩn thận, tái hiện lại buổi sáng kinh hoàng 16-3-1968 – khi 504 người dân vô tội bị sát hại, phần lớn là cụ già, phụ nữ và trẻ em. Đặc biệt, tượng đài người mẹ ôm con giữa bão đạn khiến tất cả chúng em lặng đi, xúc động và căm phẫn. 

Trước mắt chúng em còn là những căn hầm, con mương, những nơi từng thấm máu đồng bào. Lời kể của cô hướng dẫn khiến chúng em càng rùng mình trước tội ác man rợ. Những bức ảnh do một người lính Mỹ chụp lại, công bố với thế giới, trở thành bằng chứng buộc tòa án quốc tế phải đưa vụ thảm sát ra xét xử.

Ba giờ trôi qua, đoàn đã đi hết khu di tích. Không ai cất lời, chỉ còn lại sự lặng im thành kính. Tất cả cùng thắp nén hương tưởng niệm, gửi gắm lời tiễn đưa những linh hồn oan khuất và lời ước nguyện hòa bình cho mai sau.

Rời Sơn Mỹ, trong mỗi chúng em dâng lên một nỗi xúc động khó tả. Chuyến tham quan ấy không chỉ giúp chúng em hiểu thêm về lịch sử quê hương Quảng Ngãi anh dũng mà còn khắc sâu bài học: chiến tranh để lại quá nhiều đau thương, và hòa bình là khát vọng vĩnh hằng của nhân loại.

Viết bài văn kể lại một chuyến đi tham quan di tích lịch sử văn hóa nâng cao

Mùa hè năm nay, nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng miền Nam, cơ quan của bố tổ chức một chuyến du lịch xuyên Việt, điểm dừng chân là Thành phố Hồ Chí Minh – nơi từng được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông”. Tôi may mắn được theo bố đi cùng. Đến giờ, ký ức về chuyến đi ấy vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi, tươi mới như vừa mới hôm qua.

Trong hành trình, đoàn đã tham quan Thảo Cầm Viên, khu du lịch Suối Tiên, khách sạn Caravelle – nơi từng chứng kiến những trận đánh hào hùng của biệt động Sài Gòn. Nhưng đặc biệt nhất, gây ấn tượng sâu sắc nhất chính là Dinh Độc Lập – di tích lịch sử gắn liền với chiến thắng lịch sử ngày 30/4/1975.

Ngay từ cái nhìn đầu tiên, Dinh Độc Lập hiện ra lộng lẫy trong nắng vàng rực rỡ của phương Nam. Theo lời thuyết minh, tiền thân của dinh là Dinh Norodom, xây dựng từ năm 1868, sau đó từng được gọi là dinh Thống đốc, dinh Toàn quyền. 

Đến năm 1955, Ngô Đình Diệm đổi tên thành Dinh Độc Lập, và sau khi miền Nam giải phóng, nơi đây chính thức mang tên Dinh Thống Nhất. Công trình do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ – người từng đoạt giải Khôi nguyên La Mã – thiết kế, mang vẻ đẹp vừa hiện đại, vừa truyền thống, kết hợp hài hòa giữa phong thủy Á Đông và tinh hoa kiến trúc phương Tây.

Dinh nằm trong khuôn viên rộng lớn, rợp bóng cây xanh. Diện tích sử dụng lên đến 20.000m² với hơn 100 phòng, mỗi phòng được bài trí theo một chức năng riêng: phòng khánh tiết, phòng họp hội đồng, phòng đại yến, phòng làm việc của tổng thống và phó tổng thống… Mặt tiền dinh được trang trí cách điệu như những đốt trúc, vừa thanh nhã vừa vững chãi. Trước cửa, thảm cỏ xanh mướt hình ô-van trải dài, tạo nên một khung cảnh hài hòa, mát mắt.

Khuôn viên phía trước còn lưu giữ những hiện vật lịch sử: chiếc máy bay F5E của trung úy Nguyễn Thành Trung đã từng ném bom xuống dinh ngày 8/4/1975, cùng hai chiếc xe tăng huyền thoại mang số hiệu 843 và 390 – biểu tượng cho giờ phút lịch sử 30/4/1975. 

Chính chiếc 843 đã húc nghiêng cổng phụ, còn 390 lao thẳng vào cổng chính, để rồi 11 giờ 30 phút hôm ấy, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc dinh, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ Sài Gòn cũ và chiến thắng trọn vẹn của dân tộc. Đứng trước hai cỗ xe tăng, ai cũng muốn chụp cho mình một bức ảnh lưu niệm. Riêng tôi, còn “liều” trèo hẳn lên tháp pháo xe 843 để chụp hình, khiến các chú quản lý chỉ mỉm cười nhắc nhở.

Đi sâu vào tham quan, chúng tôi ghé qua hầm ngầm kiên cố của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, với tường thép dày tới 1,2 mét. Dù được thiết kế kỹ lưỡng để phòng thủ, nhưng cuối cùng vẫn không thể ngăn chặn sự sụp đổ tất yếu. Mỗi hiện vật, mỗi căn phòng trong dinh như tái hiện sống động không khí khốc liệt của chiến tranh và giây phút thiêng liêng của ngày toàn thắng.

Rời Dinh Độc Lập, lòng tôi bồi hồi xen lẫn tự hào. Chuyến đi ấy không chỉ cho tôi cơ hội ngắm nhìn một công trình kiến trúc độc đáo, mà còn giúp tôi thấm thía hơn giá trị của hòa bình, hiểu rằng chiến thắng hôm nay là kết quả của biết bao máu xương, trí tuệ và lòng dũng cảm của cả dân tộc. Dinh Độc Lập với tôi sẽ mãi là biểu tượng của tự do, là ký ức rực rỡ trong tuổi thơ mà tôi không bao giờ quên.

Xem thêm: Top 20+ mẫu tiết bài văn phân tích một tác phẩm truyện lớp 8 siêu hay

Viết bài văn kể lại một chuyến đi tham quan một di tích lịch sử văn hoá cho HSG

Cuộc đời mỗi người là những hành trình nối tiếp, và mỗi chuyến đi đều để lại những ấn tượng khó phai. Với tôi, kỷ niệm sâu sắc nhất chính là chuyến tham quan Lăng Bác và khu di tích Phủ Chủ tịch vào cuối năm học lớp 5 – chuyến đi xa đầu tiên của tập thể lớp sau năm năm gắn bó bên nhau.

Ngày ấy, khi nhà trường thông báo, cả lớp vỡ òa trong niềm vui. Giờ ra chơi nào chúng tôi cũng ríu rít bàn tán, háo hức chờ đợi. Chiều thứ bảy, xe khởi hành, mang theo tiếng cười giòn tan cùng những ánh mắt tròn xoe thích thú. Ba tiếng ngồi xe, chúng tôi chẳng khi nào ngồi yên, hết chỉ trỏ phong cảnh bên đường lại rì rầm đoán già đoán non về Thủ đô. Khi Hà Nội hiện ra trong ánh chiều muộn, cả đoàn nhận phòng khách sạn, nghỉ ngơi để sáng hôm sau kịp viếng Lăng Bác.

Sáng chủ nhật, đúng sáu giờ, chúng tôi đã chỉnh tề trong bộ đồng phục trắng tinh, xếp hàng ngay ngắn hướng về Quảng trường Ba Đình. Người đến viếng Bác rất đông, chúng tôi chờ gần một tiếng mới được vào lăng. Không khí bên ngoài nắng vàng rực rỡ, vậy mà trong lăng lại tĩnh lặng, mát lạnh. Mọi bước chân đều chậm rãi, nhẹ nhàng. Trong ánh sáng dịu vàng, Bác nằm yên bình, hiền từ, gương mặt thanh thản như đang ngủ một giấc dài. Trái tim mỗi chúng tôi như nghẹn lại, trào dâng niềm kính yêu vô hạn.

Rời lăng, đoàn tiếp tục tham quan khu Phủ Chủ tịch. Trước mắt chúng tôi là ngôi nhà sàn giản dị của Bác, nằm khiêm nhường giữa vườn cây xanh mát. Cô hướng dẫn kể, nơi đây từng chứng kiến biết bao đêm Người đọc tài liệu, viết thư cho đồng bào, soạn di chúc để lại cho thế hệ mai sau. Lắng nghe, tôi như thấy bóng dáng Bác trầm ngâm bên bàn làm việc, ánh mắt hiền từ nhìn xa xăm mà trái tim thì lúc nào cũng đau đáu vì nhân dân.

Đi dọc con đường nhỏ, chúng tôi đến bên ao cá. Nước hồ trong vắt, những đàn cá chép bơi lượn tung tăng. Cô giáo bảo, có những con cá đã sống ở đây từ rất lâu, gắn bó như những người bạn của Bác. Cảnh vật thật bình dị mà thân thương, gợi lên hình ảnh một vị lãnh tụ giản dị, gần gũi vô cùng.

Điểm dừng chân cuối cùng là Bảo tàng Hồ Chí Minh. Bước vào không gian trang nghiêm ấy, chúng tôi được tận mắt chiêm ngưỡng hàng trăm hiện vật, tư liệu gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Mỗi hiện vật, mỗi câu chuyện đều mở ra một trang sử hào hùng, giúp chúng tôi hiểu thêm về tấm lòng yêu nước, đức hi sinh và nhân cách vĩ đại của Bác.

Chiều đến, chuyến tham quan khép lại. Trước khi lên xe, cả lớp chụp chung một bức ảnh kỷ niệm. Chuyến đi tuy ngắn ngủi nhưng để lại trong lòng chúng tôi niềm xúc động sâu sắc. Lần đầu tiên được tận mắt viếng Lăng Bác, được đứng trong ngôi nhà sàn, được nhìn thấy những kỷ vật giản dị mà thiêng liêng… tất cả đã trở thành ký ức không thể nào quên. Từ hôm ấy, tôi càng thấy tự hào và biết ơn khi được sống trong hòa bình, được đi trên con đường mà Bác và bao thế hệ cha anh đã dày công vun đắp.

Bài Viết Liên Quan