Truyện ngắn Nhà mẹ Lê

07/05/2025

Nhà mẹ Lê là một truyện ngắn cảm động viết về cuộc sống và con người trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Qua hình ảnh mẹ Lê – người phụ nữ giàu lòng yêu nước, giàu đức hy sinh và luôn bao dung, tác phẩm đã tái hiện sinh động tình làng nghĩa xóm và phẩm chất cao đẹp của người dân miền Nam. Với lối kể chân thực, giản dị mà sâu sắc, Nhà mẹ Lê mang đến cho người đọc nhiều xúc động và suy ngẫm, đồng thời khẳng định vai trò của hậu phương vững chắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Toàn bộ trích đoạn truyện ngắn Nhà mẹ Lê:

Đoàn Thôn là một cái phố chợ tồi tàn gần ngay một huyện lị nhỏ ở trung châu. Hai dãy nhà lụp xụp, mái tranh xuống thấp gần đến thềm, che nửa những cái chái nứa đã mục nát. Gần đấy là những quán chợ xiêu vẹo đứng bao bọc một căn nhà gạch có gác bưng bít như một cái tổ chim, nhà của một người giàu trong làng làm ra để bán hàng. Người ở phố chợ là bảy tám gia đình nghèo khổ không biết ở đâu, mà người dân trong huyện thường gọi một cách khinh bỉ: những kẻ ngụ cư. Họ ở đâu đến đây kiếm ăn trong mấy năm trời làm đói kém, làm những nghề lặt vặt, người thì kéo xe, người thì đánh dậm, hay làm thuê, ở mướn cho những nhà giàu có trong làng. Người ta gọi mọi gia đình bằng tên người mẹ, nhà mẹ Hiền, nhà mẹ Đối, nhà mẹ Lê. Những gia đình này giống nhau ở chỗ cùng nghèo nàn như nhau cả.

Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một người con. Bác Lê là một người đàn bà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay nhăn nheo như một quả trám khô. Khi bác mới đến phố, ai ai cũng chú ý đến đám con của bác: mười một đứa, mà đứa lớn mới có mười bảy tuổi! Đứa bé nhất hãy còn bế trên tay.

Mẹ con bác ta ở một căn nhà lá. Chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan gãy nát. Mùa rét thì trải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc. Đối với người nghèo như bác một chồ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi. Nhưng còn cách kiếm ăn? Bác Lê chật vật, khó khăn suốt ngày cũng không đủ nuôi từng ấy đứa con. Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người trong làng. Những ngày có người mướn ấy, tuy bác phải làm vất vả, nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà.

Đó là những ngày sung sướng. Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng lúa đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ, dưới gió bấc lạnh như lưỡi dao sắc khía vào da, bác Lê lo sợ, vì không ai mướn bác làm việc gì nữa. Thế là cả nhà nhịn đói, mấy đứa nhỏ nhất: con Tý, con Phún, thằng Hy mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét như thịt con trâu chết. Bác Lê ôm lấy con trong ổ rơm, để mong lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó. Thằng con lớn thì từ sáng đã cùng thằng Ba ra cánh đồng kiếm con cua, con ốc, hay sau mùa gặt, đi mót những bông lúa còn sót lại trong khe ruộng. Thật là sung sướng, nếu chúng mang về được một lượm, trong những ngày may mắn. Vội vàng bác Lê đẩy con ra, vơ lấy bó lúa, đem để xuống dưới chân vò nát, vét hột thóc giã lấy gạo. Rồi làm một bữa cơm nóng lúc buổi tối giá rét, mẹ con ngồi chung quanh nồi cơm bốc hơi, trong khi bên ngoài gió lạnh rít qua mái tranh.

Cuộc đời của gia đình bác Lê cứ như thế mà lặng lẽ qua ngày nọ rồi lại đến ngày kia. Tuy vậy cũng có những ngày vui vẻ. Những ngày nắng ấm trong năm, hay những buổi chiều mùa hạ, mẹ con bác Lê cùng nhau ngôì chơi ở trước cửa nhà. Các người hàng xóm cũng làm như thế, các bà mẹ ngồi rủ rỉ với nhau những câu chuyện kín đáo; các trẻ con nô đùa dưới quán chợ, còn các bà già thì ngồi giũ tóc cho chúng và gọt tóc chúng bằng mảnh chai sắc. Thằng cả ngồi đan lại cái lờ. Còn những đứa khác chơi quanh gần đấỵ Trong những ngày hè nóng bức, con bác Lê đứa nào cũng lở đầu. Bác ta bảo là một cái bệnh gia truyền từ đời ông tam đại nên bác lấy phẩm xanh bôi cho chúng nó. Trông mẹ con bác lại càng giống mẹ con một đàn gà, mà những con gà con người ta bôi xanh lên đầu cho khỏi lẫn. Người phố chợ thường nói đùa bác Lê về đàn con đông đúc ấỵ Bác Đối kéo xe, người vui tánh nhất xóm, không lần nào đi qua nhà bác Lê mà không bảo:

– Bác phải nhớ thỉnh thoảng đếm lại con không quên mất.

Bác Lê bao giờ cũng trả lời một câu:

– Mất bớt đi cho nó đỡ tội.

Nhưng mọi người biết bác Lê quí con lắm. Tuy bác hết sức công bằng, người ta cũng thấy bác yêu thằng Hy hơn cả. Nó là con thứ chín, ốm yếu, xanh xao nhất trong nhà. Bác thường bế nó lên hôn hít, rồi khoe với hàng xóm, nội cả nhà chỉ có nó là giống thầy cháu như đúc. Rồi bác lại ôm con ngồi lặng yên một lát, như để nhớ lại chuyện gì đã lâu lắm.

Những đêm sáng trăng mùa hạ, cả phố bắc chõng ngồi ngoài đường, vì trong nhà nào cũng nóng như một cái lò, và hàng vạn con muỗi vo ve. Dưới bóng trăng, những đá rải đường trông đen lay láy và lấp loáng ánh sáng. Đất hãy còn giữ cái nóng buổi trưa và bốc lên một cái mùi riêng, lẫn mùi rác bẩn và mùi cát. Mọi người họp nhau nói chuyện. Trẻ con nghịch chạy quanh các bà mẹ, hình như quên cảnh khổ sở, hèn mọn, ai ai cũng vui vẻ chuyện trò, tiếng cười to và dài như người lớn, xen lẫn với tiếng khúc khích của các cô gái chúm chụm sát nhau trong bóng tối, người ta thấy tiếng bác Hiền nói vang, tiếng bác Đối thuật lại buổi xe kiếm may mắn. Trong một căn nhà đưa ra một tiếng võng và tiếng hát lanh lảnh của bác Đối gái, đã đem hết tiền buổi xe kiếm được của chồng vào hiệu khách mua một cân táo tầu rồi nằm võng vừa nhai vừa hát trống quân: “Ngày xưa, có anh Trương Chi…

Mấy năm sau, sự kiếm ăn ngày một thêm khó khăn. Buổi chợ họp không đông đúc như trước. Những tiếng nói chuyện trong sương lúc mờ sáng của các người hàng sáo gánh gạo kĩu kịt trên đò để đem xuống huyện bán, người ta không nghe thấy nữa. Cái đói kém đến chen lần trong các phố chợ. Bác Hiền ngày nào cũng gánh hàng đi rồi lại gánh hàng về. Còn thường thấy bác Đối kéo cái xe không, đi lảng vảng trong huyện và vợ bác cũng không hay nằm võng hát trống quân nữa. Bác Lê trong lúc ấy, đi khắp các nhà trong làng, xin làm mướn, nhưng các nhà có ruộng không ai mướn. Bác có làm không công, người ta cũng chỉ cho có nửa bát gạo, đùm bọc về không đủ cho ba đứa con ăn. Những ngày nhịn đói liên tiếp nhau luôn. Bác Lê thấy đàn con ngày một gầy còm, buổi chiều bác mệt nhọc chán nản trở về, hỏi thằng cả xem có đánh được ít cá nào không, thì nó buồn rầu khẽ lắc đầu, trả lời rằng các hồ ao người ta đã cấm không cho nó thả lờ nữa.

Mùa rét năm ấy đến, giá lạnh và mưa gió lầy lội. Đàn con bác Lê ôm chặt lấy nhau rét run trong căn nhà ẩm ướt và tối tăm vì đèn đuốc không có nữa. Mấy gia đình ở phố chợ đều đói rét và khổ sở. Nhưng mỗi nhà đều lặng lẽ, âm thầm và chịu khổ một mình, không than thở với láng giềng hàng xóm lời gì, ai nấy đều biết cũng nghèo khốn như nhau.

Một buổi chiều, mà đàn con đã nhịn đói suốt buổi, bác Lê vá lại manh áo rét, gọi đứa cả đến rồi bảo:

– Ở nhà trông các em, tao vào ông Bá xem có xin được ít gạo nào không?

– Ban sáng u đã vào nhà người ta có cho đâu, cậu Phúc lại còn bảo hễ u vào nữa thì cậu ấy thả chó ra cắn.

Bác Lê đáp:

– Nhưng biết làm thế nào! Không có thì lấy gạo đâu ra mà ăn? Thôi tao cứ liều vào lần nữa xem sao.

Nói xong, bác Lê mở cửa liếp ra đi. Trong lòng bác vẫn có chút hy vọng trong buổi sáng lúc vào xin gạo. Ông Bá đã đuổi mắng không cho. Bác nhớ lại cải cảnh sang trọng, ấm cúng trong nhà ông Bá. Những chậu sứ, câu đối thếp vàng sáng chói. Không lẽ ông Bá giầu có thế mà không thí cho mẹ con bác được bát gạo hay sao?

Ở nhà, đàn con bác ngồi nhìn nhau đợi trong ổ rơm. Bác đi đâu không thấy về. Thằng Hy lắng tai nghe tiếng chó cắn trong làng rồi bảo chị nó:

– Hình như u về đấy chị ạ.

Thằng cả đi lại bên cửa bếp nhìn ra ngòai. Bỗng có tiếng chân người rầm rập, đến tiếng gọi, rồi lũ trẻ thấy bác Đối và một người nữa khiêng bác Lê vào trong nhà. Trên bắp chân người mẹ, máu đỏ chảy ròng ròng.

Thằng cả hiểu ngay mẹ nó bị chó ông Bá cắn. Bác đặt người bị thương xuống chiếu rồi ra đi sau khi dặn:

– Bây giờ, bác lấy lá lốt mà dịt cho nó cầm máu. Chó tây cắn thì độc lắm đấy.

Khi bác đi khỏi, lũ trẻ xúm quanh lấy mẹ. Thằng Hy vừa mếu máo vừa hỏi:

– U làm sao thế, u?

Bác Lê nén cái đau, giảng cho con biết:

– Thật cậu Phúc ác quá! Đã không cho thì thôi lại còn thả chó ra đuổi, tao đã chạy mà không kịp, nên nó cắn phải. May gặp bác Đối, chứ không biết bao giờ mới lê được về đến nhà.

Bác ngừng lại nhìn đàn con ốm yếu, rồi thở dài:

– Thế là mẹ con lấy gì ăn cho đỡ đói bây giờ.

Thằng Hy òa lên khóc, con Tý cũng khóc theo. Bác Lê giơ tay ôm chúng nó vào lòng nghĩ thân phận mình, bác cũng ứa nước mắt.

Đêm ấy, bác Lê lên cơn sốt. Những cái rùng mình lạnh lẽo nối nhau lướt trên da bác, manh chiếu rách không đủ đắp ấm thân. Trong lúc mê sảng, bác Lê tưởng nhớ lại cả cuộc đời mình, từ lúc còn bé đến bây giờ, chỉ toàn những ngày khổ sở nhọc nhằn. Cái nghèo không biết tự bao giờ đã vào nhà bác. Lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi, và từ đó nó cứ theo liền bác mãi. Nhưng có người mướn làm thì không đến nỗi. Bác nhớ lại những buổI đi làm khó nhọc, nhưng bác vui vẻ được lĩnh gạo về cho con, những bữa cơm nóng mùa rét, những lúc thằng Hy và con Tý vui đùa giằng co chiếc bánh bác mua cho chúng.

Rồi đến những ngày đi mót lúa mỏi lưng trên cánh đồng, nhặt những bông lúa thơm, những lúc vò lúa dưới chân… Bác Lê nhớ lại cái cảm giác vui mừng khi thấy cạnh bông lúa sắc sát vào thịt da. Đấy còn là những ngày no đủ. Rồi đến những buổi chợ sáng, những ngày nhịn đói như hôm naỵ Bác mơ màng thấy vàng son chói lọi trong nhà ông Bá, thấy nét mặt gian ác của cậu Phúc, con chó tây nhe nanh chồm đến.

– Trời ơi! Sao tôi khổ thế này?

Tiếng kêu thất thanh của bác làm lũ trẻ giật mình, chúng nó ngồi dậy đưa mắt sợ hãi nhìn người mẹ. Hai hôm sau, bác Lê lại lên cơn mê sảng rồi chết. Người trong phố chợ gom góp nhau mua cho bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng, chôn vùi dưới bãi tha ma nhỏ ở đầu làng.

Khi trở về, qua căn nhà lạnh lẽo âm u, họ thấy mấy đứa con nhỏ con bác Lê ngồi ở vỉa hè. Con Tý đang dỗ cho thằng Hy nín khóc, nói dối rằng mẹ nó đi chợ một lát rồi sẽ về. Nhưng họ biết rằng bác Lê không trở về nữa và họ thấy một cái cảm giác lo sợ đè nén lấy tâm can họ, những người ở lại, những người còn sống mà cái nghèo khổ cứ theo đuổi mãi không biết bao giờ hết.

Nội dung truyện ngắn “Nhà mẹ Lê”

Truyện ngắn “Nhà mẹ Lê” của Thạch Lam kể về cuộc đời khốn khó của bác Lê, một người mẹ góa bụa sống cùng mười một đứa con trong một căn nhà lá tồi tàn tại phố chợ Đoàn Thôn, nơi tập trung những người ngụ cư nghèo khổ. Bác Lê làm đủ mọi nghề để nuôi con, từ làm thuê, mót lúa đến đánh bắt cua ốc, nhưng cái nghèo luôn đeo bám. Gia đình thường xuyên đối mặt với cảnh đói khát, đặc biệt vào mùa đông khi công việc khan hiếm. Dù nghèo khó, bác Lê vẫn dành tình yêu thương đặc biệt cho các con, nhất là thằng Hy, đứa con ốm yếu giống cha.

Trong một lần túng quẫn, bác Lê liều đến nhà ông Bá giàu có để xin gạo nhưng bị cậu Phúc thả chó cắn trọng thương. Sau cơn sốt kéo dài, bác Lê qua đời, để lại đàn con mồ côi trong cảnh bơ vơ. Câu chuyện kết thúc với hình ảnh lũ trẻ ngây thơ chờ mẹ trở về, trong khi hàng xóm cảm nhận nỗi lo sợ về cái nghèo đeo đẳng mãi mãi.

Bài học từ truyện ngắn “Nhà mẹ Lê”

  1. Giá trị của tình mẹ con: Dù sống trong nghèo khó, bác Lê luôn hy sinh hết mình để nuôi nấng và che chở cho đàn con. Tình yêu thương của bác, đặc biệt với thằng Hy, là điểm sáng giữa lằn ranh của sự khốn cùng. Bài học rút ra là tình cảm gia đình, đặc biệt là tình mẹ, là nguồn sức mạnh vượt qua mọi khó khăn.
  2. Sự kiên cường trước nghịch cảnh: Bác Lê không ngừng tìm cách mưu sinh, từ làm thuê đến mót lúa, bất chấp cái nghèo và sự khắc nghiệt của cuộc sống. Điều này dạy chúng ta về tinh thần không khuất phục, luôn nỗ lực dù hoàn cảnh có tồi tệ đến đâu.
  3. Lòng đồng cảm và sẻ chia: Dù nghèo khổ, những người trong phố chợ vẫn gom góp mua ván chôn cất bác Lê, thể hiện tinh thần tương trợ trong cộng đồng. Bài học ở đây là cần biết đồng cảm và giúp đỡ những người xung quanh, đặc biệt là những người yếu thế.
  4. Phê phán sự bất công xã hội: Truyện ngắn cho thấy sự đối lập giữa cuộc sống giàu sang của ông Bá và cái nghèo khổ của gia đình bác Lê. Sự thờ ơ, độc ác của cậu Phúc khi thả chó cắn bác Lê là biểu tượng cho sự vô cảm của tầng lớp trên đối với người nghèo. Bài học là xã hội cần thay đổi để giảm thiểu bất công và mang lại cơ hội công bằng cho mọi người.

Ý nghĩa của truyện ngắn “Nhà mẹ Lê”

  1. Phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám: Truyện ngắn khắc họa chân thực cuộc sống của tầng lớp ngụ cư, những người bị xã hội xem thường và bỏ rơi. Cái nghèo không chỉ là thiếu thốn vật chất mà còn là sự bế tắc, bất lực trước số phận. Tác phẩm là tiếng nói tố cáo sự bất công trong xã hội phong kiến nửa thuộc địa.
  2. Thể hiện lòng nhân ái của Thạch Lam: Qua câu chuyện về bác Lê, Thạch Lam bày tỏ sự trắc ẩn đối với những con người nhỏ bé, bất hạnh. Ông không chỉ miêu tả cái nghèo mà còn làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của họ, như tình mẹ con, sự kiên cường và tinh thần đoàn kết.
  3. Kêu gọi thay đổi xã hội: Bằng cách phơi bày sự khắc nghiệt của cái nghèo và sự vô cảm của tầng lớp giàu có, Thạch Lam kêu gọi một xã hội công bằng hơn, nơi người nghèo được tôn trọng và hỗ trợ. Tác phẩm mang tính nhân văn sâu sắc, thôi thúc người đọc suy ngẫm về trách nhiệm của mình đối với cộng đồng.
  4. Giá trị nghệ thuật: Truyện ngắn kết hợp bút pháp hiện thực và lãng mạn, sử dụng ngôn ngữ mộc mạc nhưng giàu hình ảnh, gợi cảm xúc mạnh mẽ. Nhân vật bác Lê được xây dựng điển hình, đại diện cho hình ảnh người mẹ Việt Nam tần tảo, chịu thương chịu khó.

Kết luận

“Nhà mẹ Lê” là một tác phẩm đầy giá trị nhân văn, vừa là bức tranh hiện thực về số phận người nghèo, vừa là lời kêu gọi đồng cảm và thay đổi xã hội. Những bài học về tình mẹ con, sự kiên cường và lòng sẻ chia từ câu chuyện vẫn còn nguyên giá trị trong cuộc sống hôm nay. Tác phẩm không chỉ để lại ấn tượng sâu sắc về mặt nội dung mà còn khẳng định tài năng của Thạch Lam trong việc khắc họa số phận con người với tất cả sự tinh tế và trắc ẩn.

Xem thêm

Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa

Truyện Ngắn Việt Nam: Nhận Định và Những Tác Phẩm Nổi Tiếng

Bài Viết Liên Quan